Cây duối và tác dụng của nó
Theo y học cổ truyền, duối có vị đắng, chát, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, thông huyết, cầm máu và sát khuẩn. Nhiều nơi đã sử dụng cây duối để chữa các bệnh, đau răng, tiêu chảy, vỏ duối dùng chữa bệnh phong thấp đau nhức, sâu răng, đau bụng, sốt, tiêu chảy…
Duối hay Ruối, Duối nhám- Streblus asper Lour., thuộc họ Dâu tằm - Moraceae.
Mô tả: Cây nhỏ, cao 4 đến 10 m , toàn cây có nhựa mủ trắng. Thân và cành khúc khuỷu. Lá mọc so le, hình trứng, cứng, ráp, mép khía răng. Mùa hoa quả tháng 6 đến tháng 11.Cây duối còn gọi là duối nhám, người Tày gọi là mạy xói, cây mọc hoang nhiều nơi nước ta. Lá cứng, mọc so le, hình trứng ngược, dài khoảng 3 đến 7cm, rộng 3cm, mép khía răng, mặt lá rất nhám. Hoa đơn tính khác gốc, cụm hoa đực dạng đầu có cuống ngắn, mang 10 đến 12 hoa. Hoa cái màu lục, mọc đơn lẻ, hoặc từng cặp. Quả mọng hình cầu hơi dẹt, kích thước từ 8 đến 10 mm, có lá đài tồn tại và bao bọc một phần quả, khi chín màu vàng, ăn được, có vị ngọt. Các bộ phận của cây có thể thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc thái ngắn, phơi khô, sao vàng để làm thuốc.
Bộ phận dùng: Vỏ rễ, vỏ thân, lá và mủ - Cortex Radicis, Cortex, Folium et Latex Strebli Aspris.
Những nước như Ấn Độ, Xri Lanca, Mianma, Nam Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin và Việt Nam có nhiều cây này. Ở Việt Nam, cây mọc hoang ở vùng đồi núi và thường được trồng làm hàng rào ở khắp nơi; trồng bằng gieo hạt hoặc bằng cành. Ngày nay cây còn được trồng làm cảnh.Những bộ phận của cây như mủ dùng tươi, các bộ phận khác thu hoạch được hầu như cả năm.
Thành phần hoá học: Trong mủ có nhựa và một ít cao su; ở mủ đông đặc, tỷ lệ nhựa là 76 %, cao su là 23%. Nhựa có tác dụng làm đông mủ. Vỏ chứa một chất đắng, còn có một glucosid là streblosid.
Tính vị, tác dụng: Duối có vị đắng, chát, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, thông huyết, cầm máu, sát trùng. Người ta nhận thấy chất đắng của vỏ có tác dụng đối với cơ tim tương tự như adrenalin. Streblosid có thể so sánh với digitoxin.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả chín ăn ngọt và thơm. Lá Duối dùng để đánh bóng đồ gỗ. Gỗ mịn, trắng, mềm, đẹp thường dùng để khắc dấu, tiện đồ đạc. Vỏ chứa nhiều xơ dùng dệt túi, làm nguyên liệu chế bông nhân tạo và làm giấy. Lá làm thức ăn cho gia súc. Nhiều bộ phận được dùng làm thuốc: 1. Lá Duối: chữa trâu bò đau bụng ỉa chảy và xoa bóp chữa bại liệt; còn dùng chữa nắng nóng. Lá sao vàng chữa băng huyết, kiết lỵ. Lá non giã đắp trị vết thương chảy máu (thêm ít vôi tôi). 2. Nhựa mủ Duối dùng dán hai bên thái dương chữa nhức đầu; cũng dùng chữa đinh sang, lở chốc; 3. Vỏ Duối dùng chữa sâu răng, đau bụng, sốt, đi ỉa chảy, lỵ, trị được ho và lao phổi, phong thấp đau nhức, chó dữ cắn và đắp bó chữa gẫy xương; 4. Cành và rễ thái mỏng sắc uống làm thuốc thông tiểu chữa bụng trướng. Vỏ rễ chữa đái đục, bí đái. Liều dùng 12-20g dưới dạng thuốc sắc để uống và ngậm. Dùng ngoài lấy lượng vừa đủ. Ở Ấn Độ, nước sắc vỏ dùng chữa sốt, lỵ và ỉa chảy. Rễ dùng đắp trị mụn nhọt mưng mủ và viêm; cũng dùng trị rắn cắn. Nhựa mủ sát trùng, làm se, dùng đắp nứt nẻ ở tay và ở gót chân.
Cây duối và yếu tố phong thủy: Cây duối là cây lâu năm có thể dùng để trấn phong thủy. Cũng vì lý do đó nên ở các vùng quê Bắc Bộ duối thường được trồng làm hàng rào?
Cây duối và yếu tố phong thủy: Cây duối là cây lâu năm có thể dùng để trấn phong thủy. Cũng vì lý do đó nên ở các vùng quê Bắc Bộ duối thường được trồng làm hàng rào?
Bài thuốc theo kinh nghiệm dân gian
Tiểu Long Duối |
Đơn thuốc:
1. Chữa phù thũng: Dùng lá Duối 12g, vỏ Bưởi (sao vàng) 12g, vỏ Quýt 12g, cây Bố rừng 12g, vỏ Tỏi 10g, củ Sả 10g. Đổ 600ml nước sắc còn 200ml, uống mỗi thang 2 nước trong 1 ngày.
2. Chữa bí tiểu, nước tiểu sẻn đỏ do nóng: Cành và rễ duối 20g, rửa sạch, thái mỏng cho vào ấm đổ 500ml nước, sắc còn 250ml nước, chia 3 lần uống trong ngày, 10 ngày 1 liệu trình. Có thể dùng bài thuốc sau: Vỏ rễ duối, rễ nhót, mỗi vị 20g, sao vàng. Đổ 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 3 lần uống trong ngày. 10 ngày 1 liệu trình.Nếu kèm theo đái buốt, đái đục: Vỏ rễ cây duối, rễ cây nhót rừng mỗi thứ 20g, (sao vàng), bạch mao căn 30g, râu ngô 30g, bông mã đề 30g, cỏ nhọ nồi 20g. Đổ 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 3 lần uống trong ngày. 10 ngày 1 liệu trình.
3. Bó gãy xương: Dùng vỏ Duối giã nhỏ với lá Thanh táo, dây Tơ hồng và Chuối tiêu đắp bó.
4. Sâu răng: Dùng vỏ Duối sắc đặc ngâm.Vỏ cây duối 20g, thái mỏng, sắc lấy nước đăc ngậm.
5.Trị đau đầu, nhức hai bên thái dương, nhức trán do thay đổi thời tiết: Phết nhựa duối lên hai miếng giấy trắng, có đường kính 3cm, cho lên lớp nhựa một chút vôi tôi (bằng hạt đỗ xanh), trộn đều vôi vào nhựa, rồi dán hai miếng giấy đó vào hai bên thái dương. Cũng làm tương tự với một miếng giấy có đường kính 1cm, dán vào huyệt ấn đường (điểm giữa hai đầu lông mày). Ngày làm 1 - 2 lần. Có tác dụng giảm đau rõ rệt.
Biên tập và sưu tầm
Biên tập và sưu tầm
Comments
Post a Comment